Chế phẩm sinh học là gì? Các công bố khoa học về Chế phẩm sinh học

Chế phẩm sinh học là các sản phẩm được tạo ra từ các tác nhân hoặc chất liệu hữu cơ tự nhiên hoặc đã được chỉnh sửa di truyền để sử dụng trong các ứng dụng công...

Chế phẩm sinh học là các sản phẩm được tạo ra từ các tác nhân hoặc chất liệu hữu cơ tự nhiên hoặc đã được chỉnh sửa di truyền để sử dụng trong các ứng dụng công nghệ sinh học. Chế phẩm sinh học có thể bao gồm các loại vi sinh vật, enzym, thuốc trừ sâu, chất gây độc cho sinh vật hại, hormone, axit amin, protein và các chất khác. Chúng được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực như nông nghiệp, y học, công nghệ môi trường và công nghệ thực phẩm. Chế phẩm sinh học thường có ích cho môi trường hơn so với các chất hóa học tổng hợp và có khả năng giảm thiểu tác động tiêu cực đến sức khỏe con người và sinh vật khác.
Chế phẩm sinh học là những sản phẩm được tạo ra thông qua các quy trình sinh học, bằng cách sử dụng các tác nhân hoặc chất liệu tự nhiên hoặc đã được chỉnh sửa di truyền. Các chế phẩm sinh học có thể được sản xuất từ các nguồn tài nguyên bền vững, như cây trồng, vi khuẩn, nấm, tảo và động vật. Chúng có thể có nhiều ứng dụng trong các ngành công nghiệp đa dạng.

1. Nông nghiệp: Trong lĩnh vực này, các chế phẩm sinh học được sử dụng để cải thiện năng suất cây trồng và chất lượng sản phẩm. Ví dụ, vi sinh vật có thể được sử dụng làm phân bón hữu cơ để cung cấp các chất dinh dưỡng cho cây trồng, hoặc để làm giảm nồng độ kháng sinh trong nông sản và thú y.

2. Y học: Các chế phẩm sinh học đã đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển các loại thuốc mới, chẳng hạn như thuốc kháng vi-rút và kháng sinh sinh học. Chúng cũng được sử dụng trong phân tích gen, chẩn đoán bệnh và điều trị bệnh.

3. Công nghệ môi trường: Các chế phẩm sinh học có thể giúp xử lý nước thải và chất thải từ các ngành công nghiệp. Ví dụ, vi sinh vật có khả năng phân hủy các hợp chất ô nhiễm và làm giảm ô nhiễm môi trường.

4. Công nghệ thực phẩm: Các chế phẩm sinh học có thể được sử dụng để tăng cường chất lượng và an toàn thực phẩm. Ví dụ, enzym sinh học có thể được sử dụng để tăng cường quá trình lên men, làm giảm thời gian chín của thực phẩm và tăng cường hương vị.

Sự phát triển và sử dụng chế phẩm sinh học đang ngày càng tăng lên do lợi ích của chúng trong việc bảo vệ môi trường, tăng năng suất sản xuất và đáp ứng nhu cầu của con người trong một cách bền vững.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "chế phẩm sinh học":

Công thức chế phẩm dựa trên lipid trong mỹ phẩm và dược phẩm sinh học Dịch bởi AI
Biomedical Dermatology - Tập 4 Số 1 - 2020
Tóm tắt

Các axit béo có nguồn gốc từ dầu thực vật đã được sử dụng như là thành phần trong các công thức mỹ phẩm, và chức năng mỹ phẩm tốt nhất đã được xác định cho axit béo không bão hòa có trong triglyceride. Nhiều loại dầu, mỡ, sáp và phospholipid được sử dụng làm tá dược trong các sản phẩm mỹ phẩm và chăm sóc cá nhân. Các chất chống oxy hóa như carotenoid, retinoid và tocopherol được sử dụng do tính năng chống oxy hóa của chúng vì tầm quan trọng trong việc chăm sóc điều trị. Đối với việc chăm sóc da, điều quan trọng nhất là các loại dầu có hàm lượng axit linoleic và α-linolenic cao, giúp giảm thiểu sự hình thành chàm hay viêm da cơ địa. Những axit béo thiết yếu này tham gia vào màng tế bào và tái tạo hàng rào lipid bị tổn thương của biểu bì, đồng thời hạn chế mất nước. Các axit béo không bão hòa cho thấy hiệu quả chữa lành đáng kể đối với viêm da và được sử dụng trong nhiều sản phẩm mỹ phẩm. Dầu khoáng và sáp cũng được sử dụng trong một số sản phẩm nhờ tính chịu đựng trên da, khả năng bảo vệ, làm sạch và độ nhớt. Với công thức mỹ phẩm, các nanoformulations hiệu quả cho các làn da kích ứng và viêm, và có hiệu quả trong điều trị viêm da cơ địa và vẩy nến. Các hạt nano lipid mang lại lợi thế về độ ổn định hóa học và khả năng tương thích tốt với da, có thể được sử dụng để bảo vệ chống lại bức xạ và lão hóa.

ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC PHƯƠNG PHÁP BỔ SUNG CHẾ PHẨM SINH HỌC ĐẾN SINH TRƯỞNG VÀ SINH SẢN CỦA ARTEMIA FRANSISCANA VĨNH CHÂU
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Số 32 - Trang 94-99 - 2014
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng của các phương pháp bổ sung chế phẩm sinh học (CPSH) đến sinh trưởng, tỷ lệ sống và sinh sản của Artemia franciscana Vĩnh Châu. Kết quả cho thấy tỷ lệ sống của Artemia đạt cao nhất khi bổ sung đồng thời CPSH vào tảo và môi trường nuôi (94,3 3± 0,6%) và cao hơn rất rõ so với các nghiệm thức khác (p<0,05). Sức sinh sản của Artemia biến động từ 100-126 phôi/con cái và đạt cao nhất khi CPSH được bổ sung trực tiếp vào môi trường nuôi Artemia (p<0,05). Phương thức sinh sản của Artemia thay đổi theo các phương pháp bổ sung CPSH, trong đó tỷ lệ sinh trứng bào xác cao nhất ởcác nghiệm thức đối chứng, bổ sung CPSH vào tảo hoặc bổ sung vào môi trường nuôi Artemia (từ 90-100%) và khác biệt rất rõ (p<0,05) so với phương pháp bổ sung kết hợp (58,3%).
#Artemia franciscana #chế phẩm sinh học #chiều dài #sinh sản
Nghiên cứu thử nghiệm xử lý chất thải rắn hữu cơ dễ phân hủy từ chợ bằng công nghệ ủ sinh học kết hợp thổi khí
Bài báo trình bày kết quả đánh giá khối lượng, thành phần và thử nghiệm xử lý rác thải hữu cơ từ chợ thành phố Đà Nẵng bằng công nghệ ủ hiếu khí. Lượng chất thải từ các chợ chiếm đến 7% tổng lượng rác thải toàn thành phố, trong đó tỷ lệ thành phần chất hữu cơ trong chất thải cao, chiếm trên 80%. Quá trình xử lý chất thải hữu cơ từ chợ theo công nghệ sinh học có thổi khí với nguyên liệu đạt tỷ lệ C/N=27 và bổ sung thêm chế phẩm ACF 32 vừa giảm được thời gian ủ đến 17 ngày so với chế độ ủ thổi khí thông thường, vừa đảm bảo các thông số động học quá trình công nghệ sinh học hiếu khí. Sản phẩm phân hữu cơ vi sinh từ thực nghiệm sau khi sấy đến độ ẩm thích hợp có các chỉ tiêu đáp ứng Tiêu chuẩn ngành 10TCN 526:2002. Thực nghiệm chất lượng phân trên cây trồng cho sản phẩm có hình thái thân và lá đạt yêu cầu khi so sánh với sản phẩm bón phân NPK trong cùng điều kiện môi trường và chăm sóc.
#Chất hữu cơ từ chợ #ủ sinh học #thổi khí cưỡng bức #chế phẩm sinh học #phân hữu cơ vi sinh
ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC BỔ SUNG GLUCOSE VÀ CHẾ PHẨM SINH HỌC ĐẾN SINH TRƯỞNG VÀ SINH SẢN CỦA ARTEMIA FRANCISCANA
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Số 29 - Trang 96-103 - 2013
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng của việc bổ sung trực tiếp glucose và chế phẩm sinh họcưưưưư đến sinh trưởng, tỷ lệ sống và sinh sản của Artemia franciscana dòng Vĩnh Châu. Artemia được nuôi với mật độ 100 con/L ở độ mặn 30? và thức ăn là Lansy PZ. Trong thí nghiệm 1, các hàm lượng glucose khác nhau (0, 50, 75 và 100 ?g/L) được bổ sung vào môi trường nuôi Artemia. Kết quả sau 10 ngày thí nghiệm cho thấy tỷ lệ sống (59,0%) và chiều dài Artemia (7,3 mm) đạt cao nhất khi bổ sung glucose 100 ?g/L. Thí nghiệm 2 gồm 6 nghiệm thức: đối chứng; glucose 100 ?g/L; bổ sung đơn thuần Bacillus subtilis hoặc Lactobacillus acidophilus; kết hợp bổ sung B. subtilis hoặc L. acidophilus cùng với glucose 100 ?g/L. Sau 15 ngày nuôi, tỷ lệ sống của Artemia đạt cao nhất (61%) ở nghiệm thức chỉ bổ sung glucose. Tuy nhiên, chiều dài (7,47 mm), tỷ lệ bắt cặp (43%) và sức sinh sản của Artemia (48 phôi/con cái) đều đạt cao nhất trong nghiệm thức bổ sung B. subtilis kết hợp với glucose và khác biệt so với các nghiệm thức khác (p<0,05).
#Artemia franciscana #chế phẩm sinh học #glucose #sinh trưởng #sinh sản
Tạo chế phẩm sinh học từ giống vi khuẩn Bacillus spp. và Pseudomonas spp. có khả năng hòa tan lân
800x600 Trong nghiên cứu này, tuyển chọn được dòng vi khuẩn Bacillus B68 và Pseudomonas T15 có chỉ số hòa tan lân cao và không gây độc đối với cây trồng. Môi trường nhân giống cấp 1, cấp 2 và chất mang thích hợp cho dòng B68 lần lượt là TSB , RĐ - TB và p hân hữu cơ. Đối với dòng T15, môi trường nhân giống cấp 1, cấp 2 và chất mang thích hợp lần lượt là King’s B , NBRI P - RĐ và phân hữu cơ 75% - cám gạo 25%. Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-priority:99; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; mso-para-margin:0cm; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Calibri","sans-serif";}
#Bacillus #hòa tan lân #Pseudomonas
ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC BỔ SUNG CHẾ PHẨM SINH HỌC ĐẾN SINH TRƯỞNG VÀ TỶ LỆ SỐNG CỦA NGHÊU (MERETRIX LYRATA) GIAI ĐOẠN GIỐNG
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Số 21b - Trang 97-107 - 2012
Nghiên cứu này thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả của việc bổ sung chế phẩm sinh học vào thức ăn tự nhiên (bổ sung gián tiếp) hoặc vào bể nuôi (bổ sung trực tiếp) trong quá trình ương nghêu. Nghêu giống Bến Tre với chiều dài 11.85± 0.33mm được bố trí vào bể 100L với mật độ 40 con/bể. Thức ăn sử dụng là tảo Chlorella từ hệ thống nước xanh cá rô phi với mật độ 10000 tb/ml. Chế phẩm sinh học chứa vi khuẩn Bacillus subtillis và Lactobacillus acidophilus được bổ sung với lượng 0.5mg/L với chu kỳ 7 ngày/lần. Kết quả sau 90 ngày nuôi cho thấy tỷ lệ sống của nghêu đạt cao nhất ở nghiệm thức bổ sung trực tiếp chế phẩm sinh học (98.33%), khác biệt có ý nghĩa thống kê so với các nghiệm thức khác (P
#Chế phẩm sinh học #nghêu giống Meretrix lyrata
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC THỰC NGHIỆM CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM CHO HỌC PHẦN THÍ NGHIỆM VẬT LÍ ĐẠI CƯƠNG
  Năng lực thực nghiệm là một trong các năng lực chuyên môn quan trọng và hết sức cần thiết, cần được hình thành và phát triển, nhất đối với sinh viên sư phạm Vật lí để đáp ứng nhu cầu đổi mới của giáo dục. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát năng lực thực nghiệm đối với sinh viên năm thứ hai Khoa Vật lí Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, sau khi được học học phần Thí nghiệm Vật lí đại cương (cơ – nhiệt) tổ chức theo phương pháp dạy học khám phá, bằng phương pháp điều tra (bảng hỏi). Sau đó, chúng tôi tiến hành phân tích kết quả khảo sát (bảng trả lời câu hỏi) thu thập được. Kết quả cho thấy, các thành tố năng lực thực nghiệm của sinh viên còn ở mức trung bình, yếu là: thành tố 2. Thiết kế phương án thí nghiệm và thành tố 5. Cải tiến, chế tạo thay thế dụng cụ hư hỏng, sáng tạo dụng cụ thí nghiệm . Dựa trên kết quả thu được, chúng tôi đề xuất phương pháp dạy học khám phá trong học phần Thí nghiệm Vật lí đại cương theo các mức độ mở tăng dần nhằm phát triển năng lực thực nghiệm của sinh viên sư phạm.    
#năng lực thực nghiệm #dạy học khám phá #sinh viên sư phạm Vật lí
TUYỂN CHỌN CHỦNG VI KHUẨN LACTIC CÓ TIỀM NĂNG ỨNG DỤNG TẠO CHẾ PHẨM SINH HỌC (PROBIOTIC) BỔ SUNG VÀO THỨC ĂN CHĂN NUÔI
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP - Số 2 - Trang 018-027 - 2019
Probiotic là những vi sinh vật sống khi được bổ sung vào cơ thể với liều lượng đủ lớn sẽ tạo ra lợi ích đối với sức khỏe của vật chủ. Mục đích nghiên cứu này là phân lập được vi khuẩn lactic từ các mẫu thực phẩm lên men đánh giá một số đặc tính probiotic của chúng để ứng dụng tạo chế phẩm probiotic bổ sung vào thức ăn chăn nuôi. Mười chủng vi khuẩn đã được phân lập sử dụng môi trường MRS (de Man, Rogosa & Sharpe). Sử dụng phương pháp khuếch tán đĩa thạch, 3 chủng C2, LA6 và LT7 có khả năng đối kháng tốt nhất với cả 3 loại vi khuẩn gây bệnh: E. coli, Samonella sp, Shigella sp. Những chủng này tiếp tục được đánh giá khả năng sinh enzyme ngoại bào (protease, cellulase, amylase). Kết quả cho thấy, chủng LT7 và C2 có khả năng sinh enzyme ngoại bào cao hơn chủng LA6. Hai chủng LT7 và C2 được đánh giá khả năng chịu pH thấp (từ 2 đến 4), chịu muối mật (0,5 - 3%), kháng 3 loại kháng sinh ((Tetracycline, Gentamycin, Streptomycin) nồng độ 10 - 50 µg/ml, nhận thấy chủng LT7 có khả năng chịu, pH thấp, muối mật và kháng sinh cao hơn chủng C2. Chủng LT7 đã được lựa chọn là chủng probiotic tiềm năng và được định danh là Lactobacillus plantarum dựa trên trình tự gen 16S rRNA (1445 bp) đã được phân tích. Nghiên cứu đặc tính sinh lý, sinh hóa của chủng này cho kết quả: tế bào hình que dài, không sinh catalase, có khả năng lên men lactose.
#Lactobacillus plantarum #muối mật #probiotics thức ăn chăn nuôi #thực phẩm lên men
Đánh giá chất lượng phân hữu cơ được làm từ vỏ quả sầu riêng tại huyện trảng bom, tỉnh Đồng Nai
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp - Tập 2 Số 2 - Trang 789-798 - 2018
“Đánh giá chất lượng phân hữu cơ được làm từ vỏ quả sầu riêng tại huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai” được thực hiện với mục đích tận dụng, tái chế phế phẩm, tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình ủ phân và chất lượng của sản phẩm phân hữu cơ sau khi ủ nhằm giảm tác hại đến môi trường và giảm chi phí sản xuất nông nghiệp cho người dân. Nghiên cứu được dựa trên phương pháp thu và phân tích mẫu theo APHA, 1998 và Andrew, D.E, S.C., Lenore, E.G., Arnold, 1995. Sau 51 ngày ủ phân hữu cơ với vật liệu vỏ quả sầu riêng gồm mô hình có bổ sung bùn hoạt tính và bổ sung chế phẩm sinh học Trichoderma cho thấy quá trình phân hủy hiếu khí diễn ra khá tốt. Kết quả nghiên cứu vỏ quả sầu riêng sau khi bổ sung chế phẩm sinh học Trichoderma cho chất lượng phân hữu cơ tốt nhất, nhiệt độ trong khối ủ dao động trong khoảng 23,50C – 56,60C, pH dao động từ 5,8 – 7,1, độ ẩm dao động từ 45,2% – 57,3%. Tỷ lệ N:P:K = 1,34%:2,21%:1,09%. Nghiên cứu đã kiểm tra khả năng nảy mầm, sinh trưởng, phát triển của hạt đậu xanh trên sản phẩm phân vừa ủ xong, kết quả hạt đậu xanh đã nảy mầm bình thường và phát triển tương đối tốt trên sản phẩm ủ được. ABSTRACT“Assess the quality of compost made from durian shells in Trang Bom district, Dong Nai province” was done for the purpose of leverage, recycled waste; learning the factors affecting the composting process and the quality of the compost after composting to reduce harm to the environment and reducing agricultural production costs for farmers. The study was based on the method of collecting and analyzing samples according to APHA, 1998; Andrew, D.E., S.C., Lenore, E.G., Arnold, 1995. After 51 days study with input materials were durian shells with models with actived sludge containing and Trichoderma supplement show that the process of aerobic decomposition is quite good. From the results of durian shells with Trichoderma supplement and the best rate of composting, temperature ranges from 23,50C – 56,60C, pH ranges from 5,8 – 7,1, humidity ranges from 45,2% – 57,3%, N:P:K = 1,34%:2,21%:1,09%. The study examined the ability of green pea sprouting on both products produced compost, green pea results have emerged normal childhood development and relatively well on the compost.  
#Bùn hoạt tính #chế phẩm sinh học #hiếu khí #phân hữu cơ #sầu riêng #durian #bioproduct #compost #aerobic #Activated sludge
ĐÀO TẠO SINH VIÊN SƯ PHẠM DẠY HỌC TOÁN VỚI CÔNG NGHỆ THÔNG TIN: GÓC NHÌN TỪ KHUNG TPACK
  Các thành tựu công nghệ thông tin đang can thiệp ngày càng nhiều và sâu vào lĩnh vực giáo dục, nhất là giáo dục toán học. Điều này đặt ra những thách thức đối với việc đào tạo sinh viên dạy học Toán với nghệ thông tin tại các trường sư phạm cả về góc độ chương trình lẫn giảng dạy. Trong bối cảnh đó, bài viết là một nghiên cứu đánh giá việc đào tạo sinh viên ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Toán tại Khoa Toán – Tin học , Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh dựa trên khung Kiến thức nội dung sư phạm về công nghệ (TPACK) và đối chiếu chúng với các mô hình đào tạo giáo viên được phát triển từ khung lí thuyết này. Nghiên cứu được thực hiện theo cách tiếp cận định tính với việc phân tích đề cương chương trình Cử nhân Sư phạm Toán học, đề cương chi tiết các học phần, bài giảng trên lớp của giảng viên, sản phẩm học tập của sinh viên. Kết quả nghiên cứu cho thấy , những điểm chung của việc đào tạo với các khuyến nghị sư phạm của các nhà nghiên cứu trên thế giới, đồng thời cũng chỉ ra những điểm khác biệt sẽ là cơ sở để đề xuất những cải tiến chương trình nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu của Chương trình Giáo dục phổ thông môn Toán 2018.  
#sinh viên sư phạm #chương trình #đào tạo giáo viên #TPACK
Tổng số: 52   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6